• Về đầu trang
An Hy
An Hy

Những vụ án oan hoang đường và đau lòng nhất trong lịch sử ngành luật thế giới

Cuộc sống

Ngành luật từ xưa tới nay luôn nêu cao tinh thần của vị luật sư William Blackstone với câu nói nổi tiếng: "Thà bỏ sót 10 người phạm tội còn hơn để một người vô tội phải chịu án oan."

Thế nhưng cán cân công lý đâu phải lúc nào cũng cân bằng. Đôi lúc, chính những con người vô tội lại phải ngồi tù và trả giá cho hành động tàn bạo kinh khủng của kẻ khác.

Những người đã chết thì không ai tiếc thương, còn những người còn sống phải mất bao nhiêu năm tháng cuộc đời sau song sắt, bỏ lỡ những điều tuyệt vời mà bản thân sẽ không bao giờ được nếm trải và chịu sự ô nhục lẫn dèm pha từ bao ánh mắt xa lạ.

1. Thomas Kennedy

Trường hợp của Thomas có lẽ là vụ án oan khó hiểu nhất đối với những nhà tư pháp thành phố Longview, bang Washington, Mỹ. Bởi lẽ, người cáo buộc ông lại là cô con gái ruột 11 tuổi của mình.

cassandra kennedy

Cassandra Ann Kennedy

Năm 1991, Thomas và vợ li dị với quyền nuôi con thuộc về người mẹ, còn người cha được quyền đón 2 cô bé đến chơi một lần một tháng vào cuối tuần. Năm 2001, Cassandra bất ngờ đến nói với cảnh sát rằng em đã bị chính cha ruột cưỡng bức ít nhất 3 lần.

Cô bé sử dụng thú nhồi bông để minh họa lại những gì cha cô làm và vẽ lại chi tiết phòng tắm nơi xảy ra một trong các vụ hãm hiếp. Kết quả kiểm tra cũng cho thấy bộ phận sinh dục của Cassandra bị thương. Thomas ngay lập tức bị bắt giam ngày hôm sau. Tại phiên tòa 8/7/2002, dù ông một mực kêu oan nhưng vẫn không thay đổi được quyết định của tòa án, ông bị tuyên 15 năm tù giam.

Phải mất tận 10 năm sau, tháng 1/2012, Cassandra, lúc này đã 22 tuổi, mới liên lạc Sở cảnh sát thành phố và thú nhận chuyện bịa đặt năm xưa của mình. Cô cho biết, vì quá đau lòng trước việc li hôn, cộng thêm sự thất vọng về người cha mà cô đã nuôi trong lòng sự hận thù.

Cô muốn đẩy cha Thomas đi thật xa và câu chuyện của người bạn có bố dượng bị đi tù vì lạm dụng trẻ em đã giúp cô lên ý tưởng. Còn tổn thương ở bộ phận sinh dục khi đó, là do cô đã có hành vi quan hệ tình dục với bạn cùng lớp.

thomas kennedy

Thomas Kennedy sau bao nhiêu năm bị tù oan

Tháng 9/2014, Thomas Kennedy được trả tự do kèm mức bồi thường 519.973 USD. Cassandra không phải đối mặt với tội danh nào, một phần vì các công tố viên sợ hành động này sẽ ngăn cản những người với trường hợp tương tự không dám lên khai báo và thú nhận.

Được biết, Cassandra khi bé thường bị bạn bè bắt nạt, chế giễu và cũng không hề có mấy thiện cảm với giáo viên. Vài tháng trước khi buộc tội cha, cô đã bị đuổi khỏi trường vì giáo viên phát hiện cô bé có ý nghĩ muốn đem súng vào xả bắn tất cả mọi người.

2. Darryl Hunt

Sáng ngày 10/8/1984, Deborah Sykes - biên tập viên 25 tuổi người da trắng của một tờ báo địa phương đã bị xâm hại tình dục và đâm đến chết tại vùng ngoại ô Winston Salem, Bắc Carolina.

deborah sykes

Một người đàn ông gọi cho cảnh sát báo cáo sự việc trên và tự nhận anh ta là Sammy Mitchell. Nhưng khi cảnh sát nói chuyện với Sam ngày hôm sau, anh trả lời mình chưa từng gọi cho họ. Lúc này, một người khác tên Johnny Gray mới đến và bảo chính mình đã thực hiện cuộc gọi.

Trong quá trình điều tra, cảnh sát cũng có nhân chứng tạm thời là dân địa phương. Người này nói đã thấy Sykes đi cùng một người Mỹ gốc Phi vào sáng hôm xảy ra án mạng. Anh ta nhận diện Darryl Hunt (đồng thời là bạn của Sam) chính là người đi cùng trên. Còn về phía Johnny, dù trước đó có xác nhận người đàn ông khác (mà lúc bấy giờ đang ngồi tù), nhưng khi Darryl bị đưa vào diện nghi phạm, hắn thay đổi và xác nhận lại là Darryl.

Tiếp theo, đến lượt cô bạn gái của Darryl liên can. Lời khai ban đầu cho biết cô và bạn trai đã ở cùng nhau đêm án mạng, nên anh ấy không thể thực hiện vụ đó được. Tuy nhiên, sau khi bị bắt vì tội ăn cắp, cô nàng lại nói cảnh sát Darryl đã thú nhận với cô mọi chuyện và rằng chính anh là người giết chết Sykes.

Các nhân chứng khác được đưa ra bởi công tố viên cũng chứng thực họ nhìn thấy nghi phạm đi cùng nạn nhân trước khi án mạng xảy ra. Có người thậm chí còn khai đã thấy Darryl đi vào khách sạn địa phương rồi để lại chiếc khăn đẫm máu trong nhà vệ sinh.

Kết quả, dù anh chàng một mực phủ nhận và tự mình làm chứng bản thân không quen biết nạn nhân cũng như liên quan đến tội ác, tòa vẫn kết án anh tù chung thân.

darryl hunt mugshot

Mãi đến sau này, cô bạn gái nói trên mới chối vụ thú nhận của Darryl khiến Tòa án tối cao Bắc Carolina quyết định tạm thả anh năm 1989 và chờ đến phiên tòa sau sẽ ra phán quyết mới. Được biết vào thời điểm này, các công tố viên đã tìm gặp Darryl và đưa ra một cuộc thương lượng: một lời nhận tội đổi cho 5 năm tù giam. Lẽ dĩ nhiên, anh không bao giờ đồng ý.

Phiên tòa thứ hai được tổ chức tại nông thôn với ban thẩm phán toàn người da trắng. Nhân chứng chính từ lần xét xử đầu tiên đã ra làm chứng lần nữa. Hai người cung cấp thông tin về trại giam cũng chứng thực Darryl đã thừa nhận tội lỗi khi ở trong tù. Kết cục, anh chàng được tự do vỏn vẹn 11 tháng.

Mark Rabil, luật sư xét xử phiên tòa đầu tiên của Darryl, đã theo vụ án gần 20 năm. Sau vụ kết tội thứ hai, Rabil và một luật sư khác, Ben Dowling-Sendor, đã đệ đơn xin xét nghiệm DNA trong vụ án. Tháng 10 năm 1994, kết quả DNA trở lại: DNA của Darryl không khớp với mẫu tìm thấy trên cơ thể nạn nhân tại hiện trường vụ án. Tuy nhiên, kháng cáo của Darryl đã bị từ chối với lý do bằng chứng mới không chứng minh được sự vô tội. Khiếu nại tiếp theo cũng gặp số phận tương tự.

darrly hunt

Darryl ngày được tự do

Thể theo yêu cầu từ các luật sư, hồ sơ DNA từ hiện trường vụ án vẫn được điều hành trong cơ sở dữ liệu của tiểu bang. Cuối cùng, vào năm 2004, 19 năm sau khi Darryl bị kết án và 10 năm sau lần kháng cáo với xác nhận DNA bị từ chối, hệ thống dữ liệu cho biết kết quả DNA phù hợp với một người đàn ông tên Willard E.Brown. Tên này vốn dĩ đã bị giam giữ vì một vụ giết người khác, khi được hỏi về Deborah Sykes, hắn gật đầu thú nhận.

darrly hunt and willam brown

Darry Hunt trái) và Willard E.Brown (phải)

Darryl được trả tự do năm 2005, kết thúc gần 2 thập kỉ bị giam giữ một cách oan ức từ năm 19 tuổi. Sau khi ra tù, anh thành lập một tổ chức phi lợi nhuận giáo dục công chúng về các cơ hội cải cách tư pháp hình sự, ủng hộ người bị kết án sai trái và cung cấp tài nguyên để hỗ trợ những người mới được ra tù.

Có nguồn nói anh được nhận 2 triệu USD tiền bồi thường từ tiểu bang và thành phố sau vụ đó. Cũng có nguồn cho biết anh đã kiện thành phố Winston-Salem năm 2007 và thắng hơn 1 triệu USD.

darrly hunt 2014

Darryl trong một buổi diễn thuyết với các sinh viên luật trường Duke University năm 2014

Những năm tháng cuối đời, Darryl Hunt mắc ung thư tuyến tiền liệt, hôn nhân tan vỡ, bị đóng băng tài sản, lạm dụng cocain và bệnh trầm cảm đeo bám ngày càng phát triển. 13/3/2016 cảnh sát phát hiện anh tự sát trong xe bán tải với khóa trong. Người cảnh sát hôm ấy cũng là người đã bắt giải anh 32 năm về trước.

3. Rubin Carter và John Artis

Lớn lên trong thời đại nhiều bất ổn chính trị và sự khinh miệt của dân da trắng, không ngạc nhiên khi một đứa trẻ da màu phát triển nhiều tính cách hung hăng, dễ nổi nóng.

Rubin từng bị giao nộp cho cảnh sát, vào trường đào tạo (mà nguyên nhân là do ăn trộm quần áo, tự vệ trước kẻ lạm dụng tình dục) trước khi bỏ trốn đến nhà dì và nói dối đã lớn lên ở đó từ nhỏ để được chấp nhận vào quân sự. Tại đây, anh bắt đầu tập chơi boxing và tìm thấy niềm vui ở bộ môn này.

rubin carter

Các cuộc bạo động diễn ra đầu những năm 60 khiến 13 đứa trẻ da đen bị giết dưới súng của cảnh sát. Rubin lúc đó là người Hồi giáo da đen và từng nói với báo chí về chuyện đấu tranh lại sự bất công. Việc này khiến anh trở thành kẻ thù ngay ở quê nhà.

Nhiều năm sau đó, dù liên tục bị cảnh sát để mắt, Rubin vẫn trên đà thành công và ngày càng tiến gần hơn với chức vô địch đấm bốc hạng cân trung, thì bất ngờ bị tình nghi là hung thủ trong vụ xả súng hàng loạt.

2:30 sáng ngày 17/6/1966, hai người đàn ông da đen bước vào quán bar Lafayette Grill nổ súng và đã giết chết hai người đàn ông cùng một phụ nữ da trắng. Địa điểm xảy ra chỉ cách Rubin khoảng nửa dặm. Anh cùng với bạn mình, John Artis, bị cảnh sát dừng lại hỏi thăm vì có chiếc xe sedan Dodge trắng giống chiếc hung thủ dùng để chạy thoát (mà nhiều nhân chứng nói đó là chiếc Chevrolet).

Song, ngoại trừ màu da, cả 2 không có gì khớp với những mô tả ban đầu về kẻ giết người, nạn nhân sống sót cũng xác nhận không phải họ. Họ được thả sau khi vượt qua bài kiểm tra nói dối nhưng cảnh sát vẫn nghi ngờ và nhằm vào họ. Đến tháng 8/1966 thì họ bị buộc tội với 3 vụ giết người.

1

Tại phiên tòa năm 1967, có tận 3 nhân chứng ngoại phạm xác nhận Rubin và John ở nơi khác lúc diễn ra vụ xả súng, công tố viên không biết động cơ gây án và cảnh sát cũng không đưa ra được bất kì chứng cứ nào buộc tội họ. Tuy nhiên, cả 2 vẫn bị kết án vì lời khai của Alfred P.Bello cùng Arthur D.Bradley – 2 tên cướp đang “hành nghề” gần quán bar.

Bello nói đã thấy các bị cáo rời quán với súng trong tay, còn Bradley thì chỉ xác nhận mỗi Rubin. Suýt chút nữa cựu boxer và bạn đã bị tử hình, rất may mắn là lúc đấy thẩm phán chỉ ra phán quyết 30 năm tù với Rubin và 15 với John.

Trong nhà tù, Rubin khăng khăng từ chối mặc đồng phục và làm các công việc thể chế. Cựu boxer ăn trong phòng giam với thức ăn đóng hộp và súp mà anh cố gắng làm nóng bằng một cuộn dây điện.

Anh còn tranh thủ thời gian đọc lại hồ sơ xét xử và nghiền ngẫm sách luật, làm các bản đề nghị một phiên tòa mới, (những việc đã khiến Rubin mất tầm nhìn mắt phải).

Sự nghiệp đấm bốc vẻ vang và sự khinh thường quy tắc nhà tù khiến anh thành anh hùng với nhiều tù nhân. Những người làm việc ở đó cũng ghi nhận anh là người trấn an những kẻ bạo loạn và một bảo vệ trại giam còn cho biết anh là ân nhân cứu sống y.

2

Năm 1974, Văn phòng Bảo vệ Công New Jersey và tờ Thời báo New York thu được lời khai từ 2 tên trộm một cách độc lập. Cả 2 đều khẳng định các thám tử đã thuyết phục họ xác định sai Rubin và John để đổi lấy một sự khoan hồng về vụ ăn cắp (Bello ăn cắp tiền quán bar trong khi nạn nhân nằm chết), họ còn được nhận tiền thưởng 12.000 USD và tạm tha các tội lỗi trước đây.

Song, tại phiên tòa thứ 2 năm 1976, một nhóm công tố viên mới cho rằng cả 2 bị cáo đã thực hiện vụ giết người nhằm trả thù chủ quán rượu da trắng vì ông ta phân biệt chủng tộc nặng. Lần này, chỉ có một nhân chứng duy nhất đứng ra, và đó lại là Alfred P.Bello. Hắn thẳng thừng bác bỏ vụ hợp tác với các thám tử và vẫn nói đã thấy các bị cáo tại hiện trường vụ án. Rubin lẫn John tự do 9 tháng trước phiên tòa đó. Khi bị bắt trở lại, Rubin còn chưa kịp đón đứa con trai mà 6 ngày sau đã chào đời.

Mãi đến năm 1985, nhờ có sự kiên trì của vị luật sư bào chữa Myron Beldock - người đã phát hiện ra bằng chứng chứng minh hành vi truy tố sai trái của các công tố viên, hồ sơ vụ án mới được vạch lại. Chính thẩm phán H. Lee Sarokin của Tòa án quận Hoa Kỳ tại Newark đã lật đổ các cáo buộc.

Ông phán quyết các công tố viên đã "nhiễm bệnh nặng" bằng cách sử dụng lý thuyết trả thù chủng tộc một cách vô căn cứ, và rằng họ đã giữ lại bằng chứng bác bỏ các nhận dạng của tên trộm Bello. Đến năm 1988, tòa quyết định bác bỏ cáo trạng và tuyên bố Rubin Carter lẫn John Artis vô tội, chấm dứt 21 năm giam cầm.

4

John Artis trong một cuộc phỏng vấn. Khi được hỏi về vụ việc năm xưa và về danh tiếng của Rubin, ông trả lời: "Tôi không ganh tỵ một chút nào. Mối quan tâm chính của tôi là ra khỏi nhà tù và đem lại sự trong sạch cho tên tuổi gia đình mình."

Khi bị bắt, Rubin 29 tuổi và đang trên đà thành công. Còn John chỉ mới 19 tuổi, vừa từ bỏ học bổng để trở về nhà chăm người mẹ bệnh nặng.

4. Dewey Bozella

5

Tháng 6/1977, tại hạt Dutchess, New York, một phụ nữ 92 tuổi đã về nhà và bắt gặp một người đàn ông lạ mặt đang ăn trộm căn hộ của mình. Tên trộm đánh bà, trói bà lên rồi nhét khăn vô miệng khiến bà bị nghẹt thở.

Cảnh sát khoanh vùng đối tượng tình nghi: Dewey Bozella (có một hồ sơ phạm tội nhỏ), 2 anh em Lamar và Stanley Smith. Ban đầu 2 anh em trên kia nói không biết gì về vụ án, nhưng họ đã thay đổi lời khai khi cảnh sát nói dối họ rằng Dewey đã cáo buộc họ về vụ giết người. Lamar sau đó nói đã bắt gặp Dewey và một người đàn ông khác, Wayne Mosley, trên hiên nhà nạn nhân khi cố gắng đột nhập vào trong. Stanley thì nói đã gặp Bozella, Mosley và một người đàn ông thứ ba trong một công viên gần đó trước thời điểm vụ trộm .

Mặc dù cả Dewey lẫn Mosley phủ nhận sự việc và bồi thẩm đoàn cũng từ chối bản cáo trạng, nhưng việc truy tố vẫn tiếp diễn. Cuối cùng, bên công tố viên hứa giảm nhẹ tội cho Mosley nếu ông khai chống lại Dewey và sẽ miễn trừ cả việc khai man. Kết quả, tháng 12/1983, bồi thẩm đoàn đã kết án Dewey về tội giết người cấp hai và ông bị kết án 20 năm tù.

6

Kháng cáo của ông không thành công do bên công tố viên đã thay đổi bồi thẩm đoàn khiến cho thành viên không có một ai là da đen. Nhưng đến năm 1990, một phiên tòa mới được mở ra, 2 anh em trên lần lượt từ chối đọc và đã rút lại lời khai. Song, Dewy vẫn bị tuyên có tội và kết án 20 năm tù.

Cho đến năm 2007, các luật sư của Dewey tìm được những lời khai mâu thuẫn với lời khai tại phiên tòa cùng với một bằng chứng cho thấy một người đàn ông khác đã phạm tội.

Năm 2009, Dewey Bozella được trả tự do, kết thúc 26 năm cầm tù. Năm 2010, ông khởi kiện dân quyền liên bang và được giải quyết với số tiền 7,5 triệu USD.

5. Kirk bloodswood

Năm 1984, người ta phát hiện thi thể một bé gái 9 tuổi trong rừng, cô bé đã bị cưỡng bức, bóp cổ và bị đánh đập bằng đá một cách tàn nhẫn.

Bản phác thảo nhận dạng cung cấp bởi nhân chứng cho phía cảnh sát được công bố trên truyền hình. Hình ảnh mô tả thủ phạm là một người đàn ông da trắng cao hơn 1,9m, tóc vàng xoăn, ria mép rậm rạp, gầy và rám nắng.

Trong khi Kirk cao 1,8m, tóc đỏ và nặng hơn 90kg. Ông bị bắt sau khi có cuộc gọi nặc danh điện tới sở cảnh sát khai báo đã thấy ông đi cùng nạn nhân ngày hôm đó.

8

Trong phiên xử, 5 nhân chứng xác nhận họ đã thấy Kirk với nạn nhân. Tuy nhiên, 2 trong số những nhân chứng này không thể xác định được Kirk trong đội hình, họ chỉ nhìn thấy ông sau khi vụ việc được phát sóng. Lời khai của Kirk nói rằng ông đã làm một điều khủng khiếp ngày hôm đó sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ của ông với vợ cũng được đưa ra xét xử.

Và dù không hề có bất kì bằng chứng cụ thể nào liên kết Kirk với vụ án, ông vẫn bị kết án với các tội danh: hãm hiếp, giết người và đã bị kết tử hình.

Người đàn ông vô tội cố gắng kháng cáo. Ông cho biết lời khai trên thực chất là về tảng đá dính máu vì cảnh sát đã cho ông xem hình ảnh hiện trường và sự nhắc tên vợ chỉ vì hôm đó vợ ông sai ông đi mua đồ (tiếng Anh có một thành ngữ về máu trên đá ám chỉ những sự việc khó khăn, khó giải quyết, phiên tòa đã nhầm lẫn và đan 2 chi tiết này với nhau).

Kirk và vợ, bà Brenda

Hơn nữa, cảnh sát không hề thông báo cho luật sư bào chữa rằng vụ án còn có một nghi can khác. Song, tòa án phúc thẩm 2 năm sau khi Kirk bị buộc tội vẫn giữ nguyên bản cáo trạng. Điểm khác nhau, án tử hình được thay bằng 2 án tù chung thân.

Đầu những năm 1990, Kirk đã học về thử nghiệm DNA và những cơ hội mà nó có thể cung cấp để chứng minh sự vô tội của mình. Các công tố viên sau đó cuối cùng đã đồng ý thử nghiệm DNA cho trường hợp của ông năm 1992.

Quần short, đồ lót của nạn nhân, một cây gậy tìm thấy ở hiện trường và một sản phẩm từ khám nghiệm tử thi được so sánh với DNA của nạn nhân và Kirk. Kết quả, DNA của Kirk bị loại trừ. Lần tái thử nghiệm được thực hiện bởi FBI cũng mang kết quả tương tự.

7

Photo/Patrick Semansky)

Ông được trả tự do vào tháng 6/1993 và được giải oan tháng 12 năm đó.

Theo: Tổng hợp
  • Bình luận
  • Lưu tin xem sau
  • Bình luận
  • Copy link
  • Chia sẻ facebook

Bình luận (0)

Trở thành người đầu tiên bình luận trong bài viết này.