• Về đầu trang
H.Khanh
H.Khanh

Sinh đẻ: Nỗi đau muôn thuở

Lịch sử

1000renaissancebirth bowl

Sinh đẻ trong suốt bề dày lịch sử đã luôn được xem là một việc rất cao quý. Tầng lớp thượng lưu được khuyến khích sinh nở nhiều nhất có thể, và một người phụ nữ có địa vị khi đang mang thai hay hồi sức sau sinh đẻ thường sẽ được trân trọng và nâng niu như một vị vua. Mọi việc làm sẽ được hoãn lại để người nữ có thời gian nghỉ ngơi và dưỡng sức cho cơ thể. Nhưng phân biệt giai cấp đã luôn là một vấn đề, ngay cả trong việc sinh đẻ.

Trong thời Phục Hưng, sự phân biệt giai cấp trong sinh nở đã thể hiện rất rõ. Ở Florence vào thế kỷ 15, phụ nữ đã kết hôn khi còn là thiếu niên thường có từ 5 đến 10 đứa con, tùy thuộc vào việc cô gái có sống sót sau khi sinh đẻ không. Việc có con nguy hiểm đến mức một người phụ nữ thường bắt đầu viết di chúc ngay sau khi biết mình có thai. Một phương thức đã có từ ngàn xưa để tránh thai là nuôi con bằng sữa mẹ càng lâu càng tốt, đây là cách tự nhiên nhất để tránh thai. Tuy nhiên, ở tầng lớp thượng lưu, việc nuôi con bằng sữa mẹ gần như hoàn toàn không xảy ra mà được đẩy hết cho những người nhũ mẫu, cũng có nghĩa là những người mẹ sẽ có thể sớm mang thai tiếp.

victoria

Cũng trong thời Phục Hưng, các bác sĩ y khoa bắt đầu tham gia vào quá trình sinh nở. Toàn bộ cơ thể phụ nữ được che chắn bởi nhiều lớp vải, mọi thứ thường diễn ra khá mượt mà và suôn sẻ. Đàn ông không được tham gia vào quá trình này, và các nữ hộ sinh cũng không muốn mất việc làm của mình. Những nữ hộ sinh có kinh nghiệm về phía họ, còn các bác sĩ thì có thẩm quyền, nên đa số những tài liệu viết cũng như lời khuyên chúng ta còn giữ là do những bác sĩ chưa có kinh nghiệm viết, và hầu hết đều là đoán bừa.

500sepsis

Ba người phụ nữ đã mang thai khi họ lên chiếc thuyền Mayflower đến Mỹ. Oceanus Hopkins được sinh ra trên thuyền và đã qua đời trong mùa đông lạnh giá đầu tiên ở Massachusetts. Peregrine White, một em bé khác, được sinh ra trên tàu ngoài khơi Cape Cod và may mắn sống đến tuổi già. Đứa trẻ thứ ba chết non ở Plymouth; Mẹ cậu bé chết trong lúc đang hạ sinh cậu. Những câu chuyện như vậy gần như là chuyện thường ngày ở huyện, vì tỷ lệ tử vong của phụ nữ khi sinh con là 1 – 2% cho mỗi lần sinh. Nếu một người phụ nữ có từ 8 đến 10 đứa con, khả năng cô ấy qua đời trong lúc sinh đẻ càng cao thêm. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thậm chí còn cao hơn như vậy. Tỷ lệ một đứa trẻ qua đời trước sinh nhật thứ năm rơi vào khoảng 20%, thêm bớt tùy vào nơi sinh. Ngoài nỗi sợ qua đời và nỗi sợ con mình không sống sót được, phụ nữ thời đó cũng không hề có thuốc giảm đau, ngoại trừ rượu Whisky ở một số nơi. Trong cộng đồng Thanh giáo, nỗi đau khi sinh đẻ được xem là hình phạt của Chúa dành cho Eva và những người phụ nữ đến sau.

628slavery

Làm mẹ ở nước Mỹ thời kỳ mới phát triển còn đáng sợ hơn dưới thân phận nô lệ. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đối với những người nô lệ gốc Phi và người Mỹ gốc Phi trong thế kỷ 18 dao động từ 28-50% và tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 10 tuổi là 10-50%, do sự suy dinh dưỡng của người mẹ, làm việc quá sức, bệnh tật và không được tiếp cận y tế. Chủ nô thường đổ lỗi cho các bà mẹ về những cái chết của trẻ sơ sinh, và cũng có bằng chứng cho thấy rằng đã có những đứa trẻ bị chính mẹ mình bóp cổ đến chết để không phải lớn lên và sống cảnh đời nô lệ, nhưng những yếu tố khác kể trên cũng góp phần rất lớn vào tỷ lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh.

Khi châu Âu trở nên đông đúc hơn vào thế kỷ 17 và 18, các bệnh truyền nhiễm bắt đầu góp phần vào nguyên nhân tử vong của bé và mẹ đang mang thai, sốt, viêm loét dạ dày cũng xuất hiện từ khoảng thời gian này. Việc các bác sĩ hỗ trợ sinh đẻ không có găng tay hay những phương pháp phòng hộ khác cũng gia tăng tỷ lệ nhiễm trùng, làm cho người mẹ ốm yếu đi hẳn chỉ vài ngày sau khi sinh. Và ngoài ra, sự gia tăng của các phòng sinh đẻ cũng có nghĩa là những người phụ nữ được trộn chung với nhau để sinh đẻ, cả những người bị bệnh lẫn không bị bệnh, vi khuẩn gây bệnh lan tỏa khắp mọi nơi, từ những người ốm yếu sang những người khỏe mạnh, và mọi người đều bị bệnh như nhau.

640medivalchildbirth

Vào năm 1842, Thomas Watson khuyến nghị các bác sĩ và y tá rửa tay, sử dụng clo khi chuyển tiếp từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác. Vào năm 1847, Ignaz Semmelweis đã giảm thiểu tối đa tỷ lệ viêm loét và sốt dạ dày trong phòng sản khoa của mình bằng cách ra lệnh cho mọi người rửa tay, nhưng ý tưởng này vẫn còn mới và bị cộng đồng y tế bác bỏ. Một nạn nhân nổi tiếng của nhiễm trùng sau sinh là Mary Wollstonecraft, mẹ của Mary Shelley, tác giả cuốn tiểu thuyết kinh điển Frankenstein, năm 1797, cô hạ sinh cô con gái Mary với sự giúp đỡ của một nữ hộ sinh. Nhưng sau đó, một bác sĩ đã được gọi để giúp loại bỏ nhau thai và vị bác sĩ đó đến với bàn tay chưa rửa. Wollstonecraft đã chết một cái chết đau đớn nhưng lại không có gì nổi bật so với tình hình sức khỏe thời đó.

Mãi đến thế kỷ 19, việc sinh con mới có những thay đổi đáng kể với sự ra đời của thuốc gây mê. Nha sĩ William Morton đã nghiên cứu và tiên phong trong việc sử dụng ether để phẫu thuật vào năm 1846. Bác sĩ sản khoa James Young Simpson cũng bắt đầu dùng chloroform để gây mê vào năm 1847. Nữ hoàng Victoria đã sử dụng chloroform trong lần sinh nở thứ tám vào năm 1853. Việc thực hiện gây mê khi sinh con đã lan truyền nhanh chóng sau đó, mặc dù các giáo sĩ vẫn công khai phản đối chuyện này, kêu gọi rằng đau đớn khi sinh sản là ý muốn của Chúa.

anasthesia1914

Vào năm 1914, một phương pháp gọi là Twilight Sleep (Ngủ mê) đã được phát triển, sử dụng morphine và scopolamine để gây mê. Người mẹ ngủ trong khi sinh, nhưng thuốc cũng có ảnh hưởng đến đứa bé, và đôi lúc đứa trẻ có thể không thở được. Morphine cũng khiến một số bà mẹ tử vong trong lúc hạ sinh.

Trong thế kỷ 20, những tiến bộ trong y học và vi trùng học đã được công bố rộng rãi cho dân chúng, và tầng lớp trung lưu, hạ lưu cũng đã được tiếp cận chăm sóc y tế. Khi bác sĩ Josephine Baker được bổ nhiệm làm thanh tra y tế cho khu vực Hell’s Kitchen vào năm 1901, cô phát hiện ra 1,500 đứa trẻ sơ sinh đã qua đời trong quận chỉ riêng trong tuần trước. Cô đặt mục tiêu cho mình là phải cải thiện việc chăm sóc sức khỏe cho mẹ trước khi sinh và cho bé sau khi sinh. Trong quá trình này, sữa bột đã được phát minh, phòng khám phụ khoa được mở ra nhiều hơn, huấn luyện người giữ trẻ, bảo mẫu,…Tất cả những nỗ lực này đã làm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ nhỏ và mẹ đi rất nhiều.

600puritan

Sinh con mặc dù cho đến nay vẫn còn là một thử thách, nhưng đã an toàn hơn rất nhiều cho các bà mẹ. Trẻ em có cơ hội sống sót đến tuổi trưởng thành cao hơn, và các phương pháp kiểm soát sinh sản đều có sẵn rộng rãi cho mọi người lựa chọn và quyết định khi nào thì nên có em bé và bao nhiêu là đủ. Nhưng điều khó khăn nhất vẫn là những gì xảy ra sau khi sinh con – Xây dựng một gia đình lành mạnh và hạnh phúc.

Theo: Tổng Hợp
  • Bình luận
  • Lưu tin xem sau
  • Bình luận
  • Copy link
  • Chia sẻ facebook

Bình luận (0)

Trở thành người đầu tiên bình luận trong bài viết này.